Thứ hai, ngày 17/02/2025
Người xưa có câu “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” nghĩa là “Một ngày tù bằng nghìn năm ở ngoài”. Thế mới thấy được tự do là một thứ vô cùng quý báu. Trong các vụ án hình sự, người bị tố giác, kiến nghị khởi tố, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể bị hạn chế quyền tự do bằng các biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam,.. dẫn đến nhiều trường hợp rơi vào tình trạng khủng hoảng tinh thần trầm trọng.
Trước năm 1987, vai trò của Luật sư trong hoạt động tố tụng chưa được quan tâm chú trọng. Kể từ khi pháp lệnh về Luật sư năm 1987, Nghị quyết số 08 – NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị , Luật luật sư 2006 được ban hành, vai trò của Luật sư trong vụ án hình sự mới được ghi nhận trong hoạt động xét xử, đảm bảo hoạt động giải quyết vụ án của cơ quan tố tụng được giải quyết vụ án một cách khách quan, đúng pháp luật, tránh những vụ án oan sai.
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã nêu rõ: “Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác…”; “việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa… để đề ra những bản án, quyết định đúng pháp luật”; “các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư giỏi tranh luận dân chủ tại phiên tòa”….
Vai trò của Luật sư tiếp tục được các nhà làm luật củng cố, phát huy vai trò, quyền của luật sư trong hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động tranh tụng nói riêng tại Bộ luật tố tụng hình sự 2015
Tuy nhiên, phần lớn người bị tố giác, bị can, bị cáo,..chưa hiểu được vai trò của Luật sư một phần do thiếu hiểu biết pháp luật một phần do tác động từ nhiều yếu tố nên cảm thấy việc thuê Luật sư là không cần thiết. Trong khi đó, trên thực thế có rất nhiều vụ việc, do không nắm rõ quy định pháp luật về quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình và khi đối diện với cơ quan tố tụng họ tỏ ra lúng túng, thậm chí đưa ra những lời khai bất lợi dẫn đến quyền lợi của họ bị ảnh hưởng.
Vậy, nếu Luật sư tham gia từ giai đoạn điều tra với vai trò là người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì họ sẽ làm gì để được bảo đảm, bảo vệ kịp thời quyền lợi của người bị tố giác, kiến nghị khởi tố, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo?
Thứ nhất, trấn an tinh thần, phổ biến quyền và nghĩa vụ và giải thích pháp luật.
Như đã đề cập ở trên, không ít người vướng vào vòng lao lý tỏ ra hoang mang lo sợ, khi bị cơ quan điều tra triệu tập lấy lời khai thì không biết khai gì? Khai như thế nào? Nếu khai thì có bất lợi cho mình không, họ có quyền và nghĩa vụ như thế nào trong vụ án hình sự,…
Một trong các quyền được nhiều người dân biết đến là quyền im lặng, người bị buộc tôi“không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội” theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 58, điểm c khoản 2 điều 59, điểm d Khoản 2 Điều 60 và điểm h Khoản 2 Điều 61 BLTTHS hiện hành nhưng trên thực tế để áp dụng quyền này khi nào và việc sử dụng quyền không phải là cản trở quá trình giải quyết vụ án hay không thì không phải ai cũng biết.
Theo quy định tại Điều 72, Điều 74, Điều 83 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.
Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
Với sự tham gia của Luật sư, bị can, bị cáo,… sẽ hiểu được họ có quyền và nghĩa vụ như thế nào? Họ có phải đưa ra những lời khai bất lợi cho mình không? Khi nào họ được dùng quyền im lặng? Họ có quyền khiếu nại hay không?….và điều không kém phần quan trọng là giúp người bị buộc tội góp phần trấn an tinh thần của họ.
Thứ hai, Luật sư là cầu nối giữa bị can, bị cáo, người bị kiến nghị khởi tố, người bị tố giác,… và gia đình họ.
Trong thời điểm bị triệu tập, bị can có thể chưa hình dung được tất cả mọi tình huống nào sẽ có thể xảy ra với bản thân mình vì thiếu kiến thức pháp luật. Đã từng có trường hợp, bị can lúc bị mời triệu tập thì họ chỉ biết là lên làm việc nhưng đến khi khai xong họ lại bị tạm giữ. Vì đang không hiểu điều gì xảy ra với bản thân, nên trong tình trạng đó, nhiều người có tâm lý hoang mang, lo sợ. Họ không biết bản thân phải làm gì trong trường hợp này. Và ngay cả gia đình họ cũng lo lắng khi không biết được tình hình của người thân mình như thế nào.
Trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù có quy định về việc người thân của người bị tạm giam, tạm giữ có quyền thăm gặp bị can, bị cáo. Việc thăm gặp phải chịu sự giám sát, theo dõi của cơ sở giam giữ; cơ quan thụ lý vụ án có thể giám sát việc thăm gặp nếu có nhu cầu. Tuy nhiên, những quy định này là để áp dụng cho trường hợp thăm gặp thân nhân và đối tượng không phải là thân nhân nhưng được cơ quan đang thụ lý vụ án đồng ý cho thăm gặp, không áp dụng đối với Luật sư nhưng trên thực tế quyền này chưa được bảo đảm.
Trong khi đó, theo quy định tại khoản 3 Điều 22 Luật thi hành tạm giam, tạm giữ năm 2015 quy định, Luật sư được gặp người bị tạm giam để thực hiện việc bào chữa, không giới hạn số lần gặp, điều kiện gặp mặt là phải xuất trình giấy tờ tuỳ thân và giấy tờ về việc bào chữa, không quy định việc giám sát buổi gặp, không cần phải xin phép bất cứ cơ quan nào, không quy định việc phải báo trước về việc thăm gặp, cũng không cho phép các cơ quan quản lý nhà nước được phép quy định chi tiết nội dung này.
Bên cạnh đó, ngay khi được triệu tập đến cơ quan điều tra hoặc cơ quan tiến hành một số hoạt động điều tra thì người bị tình nghi, người bị tố giác, bị can đã có quyền mời Luật sư. Khi luật sư hoàn tất thủ tục Luật sư và được cơ quan điều tra tố tụng thì họ sẽ được làm việc, trao đổi với thân chủ của mình. Do đó, Luật sư sẽ là cầu nối cung cấp thông tin, tình hình của thân chủ và gia đình thân chủ để họ yên tâm và tập trung vào các công việc của mình.
Thứ ba, Luật sư có quyền tham gia các buổi hỏi cung
Các vụ án hình sự được thực hiện theo các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Và trong các giai đoạn đó, lời khai đầu tiên của người khai luôn rất quan trọng. Bởi lẽ, những lời khai đầu tiên là những manh mối để cơ quan điều tra có thể khai thác vụ án theo hướng của những lời khai đó. Lời khai trong quá trình điều tra đều được ghi lại và là bằng chứng để buộc tội hay chứng minh sự liên quan của người đó với một vụ án. Người khai mà có những lời khai bất lợi cho bản thân thì sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình giải quyết vụ án sau này
Với sự có mặt của Luật sư sẽ đảm bảo cho hoạt động hỏi cung được diễn ra khách quan, hạn chế được tình trạng ép cung, mớm cung làm sai lệch bản chất vụ án. Bởi trên thực tế, còn tồn tại một số trường hợp cơ quan điều tra sử dụng những biện pháp hỏi cung trái pháp luật (như mớm cung, ép cung, dùng nhục hình) vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân của người bị tình nghi thực hiện tội phạm và hậu quả dẫn đến các vụ oan sai.
Khi tiến hành hỏi cung, điều tra viên ghi câu trả lời của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố vào biên bản lấy lời khai.Trường hợp điều tra viên hoặc cán bộ điều tra đưa ra những câu hỏi mang tính buộc tội và gây bất lợi cho thân chủ của mình, Luật sư có quyền đề nghị việc đặt câu hỏi khác hoặc đề nghị thay đổi điều tra viên nếu có căn cứ cho rằng họ thiếu khách quan khi làm nhiệm vụ.
Khi kết thúc việc lấy lời khai, Điều tra viên, cán bộ điều tra phải đọc lại hoặc đưa cho người bào chữa đọc lại biên bản lấy lời khai, sau khi xác nhận đúng nội dung câu hỏi của Luật sư câu trả lời của bị can, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố,… thì Điều tra viên, cán bộ điều tra yêu cầu Luật sư của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố ký vào biên bản. Trường hợp biên bản ghi chưa đầy đủ, chưa chính xác nội dung câu hỏi và câu trả lời Luật sư có quyền đề nghị sửa đổi, bổ sung hoặc ghi ý kiến của mình trước khi ký vào biên bản. Khi người bào chữa đề nghị, Điều tra viên phải xác nhận thời gian làm việc thực tế của người bào chữa tham gia tố tụng trong quá trình điều tra vụ án hình sự.
Thứ tư, Luật sư có đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế.
Luật sư có quyền được đưa ra các văn bản đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, cơ quan đang thụ lý vụ án tiếp nhận văn bản để giải quyết. Trong thời hạn không quá 10 ngày làm việc, kể từ khi tiếp nhận, nếu có căn cứ thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 125, Điều 130, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 thì Cơ quan đang thụ lý vụ án ra quyết định thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo thẩm quyền hoặc tiến hành các thủ tục cần thiết gửi Viện kiểm sát quyết định đối với các biện pháp ngăn chặn do VKS phê chuẩn.
Nếu Luật sư có đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế không có căn cứ pháp luật thì Cơ quan đang thụ lý vụ án từ chối việc thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế và thông báo cho người bào chữa bằng văn bản, trong đó nêu rõ lý do từ chối.
Thứ năm, Luật sư có quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, người bào chữa thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật và giao cho Cơ quan đang thụ lý vụ án thì Điều tra viên, cán bộ điều tra phải lập biên bản giao nhận, đưa vào hồ sơ vụ án, vụ việc. Trường hợp người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố đưa ra yêu cầu, nếu thấy yêu cầu có liên quan đến việc bào chữa hoặc liên quan đến việc giải quyết vụ án, vụ việc thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra lập biên bản ghi nhận yêu cầu của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.
Trên thực tế đã có rất nhiều vụ án oan sai do lỗi của các cơ quan điều tra. Có người không có tội nhưng bị buộc tội phải ngồi tù cả hơn nửa đời người. Có người thị bị xác định sai tội danh hay là sai khung hình phạt. Trong đó nổi bật có ông Trần Ngọc Chinh và ông Trần Trung Thám ngụ tại tỉnh Vĩnh Phúc đã phải mang tiếng oan giết người suốt 39 năm, trong đó ông Thám còn phải dành những ngày cuối đời tại tạm giam mà không thể ở bên cạnh người thân và gia đình do ông đã mất trong những ngày bị tạm giam. Đó thật là các bi kịch của cuộc đời. Có những án oan sai được phát hiện và được nhà nước bồi thường. Nhưng sự bồi thường ấy đâu có bù đắp được những nỗi đau mà những người đó phải chịu. Có những người chứng kiến câu chuyện cũng đã thốt lên những lời nói nghe mà đau lòng như “một cái án oan 40 năm đã làm ảnh hưởng cuộc sống của mấy thế hệ người ta…”.
Trách nhiệm của Luật sư bào chữa trong một vụ án hình sự là nói lên những sự thật có lợi cho người bị buộc tội và im lặng trước những bất lợi pháp lý hiện hữu. Hoạt động này không triệt tiêu công lý mà đó lại chính là công lý, đảm bảo sự cân bằng cho cán cân công lý giữa một bên buộc tội và một bên gỡ tội. Chính vì những lý do trên, cách tốt nhất để giải quyết những vấn đề đó là phải biết cách để bảo vệ bản thân mình trước tiên. Bằng cách nên tìm cho mình một luật sư giỏi có tâm, có tầm để đồng hành cùng mình khi bị vướng mắc các vấn đề pháp lý.
Thứ năm, ngày 13/02/2025
Đòi nợ là quyền của người cho vay và trả nợ là trách nhiệm của người vay. Tuy nhiên, việc đòi nợ sai cách có thể dẫn đến các hậu quả pháp lý nghiêm trọng, bao gồm cả việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự tùy thuộc vào mức độ vi phạm.
1. Hành vi bạo lực, đe dọa hoặc cưỡng ép người vay
Nếu người đòi nợ sử dụng bạo lực, đe dọa tính mạng, sức khỏe, hoặc cưỡng ép người khác để đòi nợ thì họ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các điều khoản trong Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017):
- Điều 170, tội cưỡng đoạt tài sản: Hành vi đe dọa, cưỡng ép người khác để chiếm đoạt tài sản có thể bị phạt tù đến 20 năm.
- Điều 133, tội đe dọa giết người: Nếu có hành vi đe dọa giết người, mức phạt có thể đến 07 năm tù.
- Điều 140, tội hành hạ người khác: Nếu có hành vi hành hạ, đánh đập, mức phạt có thể lên đến 03 năm tù.
2. Xâm phạm danh dự, nhân phẩm người vay
Nếu người đòi nợ có hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác (ví dụ như chửi bới, bôi nhọ, làm nhục) thì họ có thể bị truy cứu theo Điều 155 Tội làm nhục người khác, mức phạt có thể lên đến 02 năm tù và bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề và cấm làm một công việc nhất định từ 01 đến 05 năm.
3. Tự ý chiếm giữ tài sản của người vay
Nếu người đòi nợ tự ý chiếm giữ tài sản của người khác mà không có thỏa thuận hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền, họ có thể bị truy cứu theo Điều 176 Tội chiếm giữ trái phép tài sản, mức phạt có thể lên đến 05 năm tù.
Ngoài ra, các hành vi như gây rối trật tự công cộng, đập phá tài sản, hoặc sử dụng các phương tiện trái phép để đòi nợ cũng có thể bị xử lý hình sự. Để đòi nợ hợp pháp, người cho vay nên thông qua các biện pháp pháp lý như khởi kiện dân sự tại Tòa án. Việc sử dụng các biện pháp trái pháp luật không chỉ gây hậu quả pháp lý mà còn có thể làm phức tạp thêm tình hình.
Nếu bạn hoặc người quen đang gặp phải tình huống khó xử như trên, hãy liên hệ ngay với Luật sư để được tư vấn và bảo vệ quyền lợi hợp pháp!
Thứ ba, ngày 11/02/2025
Căn cứ theo quy định tại Điều 318 Bộ luật Hình sự 2015 quy định tội gây rối trật tự công cộng như sau:
" 1. Người nào gây rối trật tự công cộng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng vũ khí, hung khí hoặc có hành vi phá phách;
c) Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng;
d) Xúi giục người khác gây rối;
đ) Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng;
e) Tái phạm nguy hiểm."
Như vậy, căn cứ theo quy định nêu trên thì hành vi gây rối trật tự công cộng theo khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự 2015 nêu trên tùy theo mức độ vi phạm mà có thể bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Theo quy định tại Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP (được sửa đổi bởi Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP) nếu đảm bảo đáp ứng các điều kiện sau thì người phạm tội gây rối trật tự công cộng theo khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự 2015 được hưởng án treo:
- Bị xử phạt tù không quá 03 năm.
- Người bị xử phạt tù có nhân thân là ngoài lần phạm tội này, người phạm tội chấp hành chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc.
- Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015.
- Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.
- Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục.
- Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Vậy khi đủ điều kiện như nêu trên và được hội đồng xét xử xem xét thì bạn có thể sẽ được hưởng án treo.
NẾU BẠN HOẶC NGƯỜI THÂN CỦA MÌNH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN VỤ ÁN HÌNH SỰ, HÃY LIÊN HỆ LUẬT SƯ NGAY ĐỂ PHÒNG NHỮNG RỦI RO KHÔNG ĐÁNG CÓ !
Thứ năm, ngày 17/10/2024
Theo quy định tại khoản 1 điều 30 Luật Thi hành án dân sự và Điều 4 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định: “Trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án”.
Khi người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án trong thời hạn quy định, chấp hành viên phải ra các quyết định thi hành án và tống đạt đến trại giam cho người phải thi hành án. Chấp hành viên phải xác minh xem người phải thi hành án có tài sản như nhà, đất… để kê biên đảm bảo thi hành án.
Người phải thi hành án phải kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án với cơ quan Thi hành án dân sự và phải chịu trách nhiệm về việc kê khai theo quy định của pháp luật.
Người phải thi hành án có thời hạn 10 ngày để tự nguyện thi hành án, nếu không tự nguyện sẽ bị cưỡng chế. Cơ quan Thi hành án có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án để thực hiện việc bồi thường dân sự gồm:
Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ; khai thác tài sản của người phải thi hành án; buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ; buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định.
Trong trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án thì ít nhất 6 tháng một lần, chấp hành viên phải xác minh điều kiện thi hành án.
Nếu người phải thi hành án đã thi hành án tử hình, phần nghĩa vụ dân sự của họ sẽ được chuyển giao cho người thừa kế (nếu có để lại di sản) theo quy định của pháp luật về thừa kế. Nếu không để lại di sản thì cơ quan Thi hành án dân sự sẽ đình chỉ thi hành án.
Đối với phần bồi thường dân sự về cấp dưỡng, nếu người phải thi hành án bị tử hình thì không chuyển giao cho người thân thực hiện thay, trừ việc người thân của họ tự nguyện bồi thường thay trong giai đoạn truy tố, xét xử để người phải thi hành án được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điều 51 Bộ luật Hình sự.
Thứ tư, ngày 04/9/2024
Vai trò Luật sư trong giai đoạn điều tra của vụ án hình sự là rất quan trọng, bởi đây là giai đoạn chuẩn bị, nền móng cho một vụ án hình sự. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ của mình trong vụ án hình sự, Luật sư cần trực tiếp tham gia vào vụ án càng sớm càng tốt, đặc biệt là ngay từ khi bắt đầu “điều tra” vụ án hình sự. Trong bài viết này, Công ty Luật Nam Hà sẽ giải đáp cho khách hàng về việc Luật sư tham gia trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
1. Cơ sở pháp lý điều chỉnh việc Luật sư tham gia giải quyết vụ án hình sự
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012.
2. Điều tra vụ án hình sự là gì?
Để biết được phạm vi hoạt động của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, cần hiểu, điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai sau giai đoạn khởi tố vụ án do cơ quan điều tra (bao gồm cơ quan điều tra, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra – sau đây gọi chung là cơ cơ quan có thẩm quyền điều tra) thực hiện
Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là phải thu thập được những chứng cứ, bao gồm cả chứng cứ buộc tội để chứng minh tội phạm, người, pháp nhân thương mại thực hiện hành vi phạm tội, xác định tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra và chứng cứ gỡ tội, chứng cứ xác định tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ tránh nhiệm hình sự của bị can, cũng như làm rõ những vấn đề cần chứng minh theo quy định tại Điều 85 BLTTHS nhằm không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội
Các hoạt động điều tra vụ án hình sự bao gồm:
Khởi tố và hỏi cung bị can
Lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, đối chất và nhận dạng.
Khám xét, thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật
Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra
Giám định và định giá tài sản
3. Luật sư được tham gia từ giai đoạn nào của vụ án hình sự?
Theo quy định tại BLTTHS 2015, Luật sư có thể tham gia với tư cách Người bào chữa hoặc Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, của bị hại, của đương sự.
Theo Điều 74 BLTTHS 2015, Luật sư có thể tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trường hợp bắt, tạm giữ thì có thể tham gia từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động hoặc từ khi có quyết định tạm giữ. Đối với trường hợp cần giữ bí mật điều tra thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để Luật sư tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
4. Phạm vị hoạt động của Luật sư trong giai đoạn điều tra
Phạm vi trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Luật sư được xác định từ khi có quyết định khởi tố vụ án và kết thúc khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra ban hành bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ban hành bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra.
Về thời điểm luật sư tham gia hoạt động tố tụng, Điều 74 BLTTHS 2015 quy định như sau:
“Điều 74. Thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng
Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.
Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.
Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.”
Theo quy định nêu trên, người bào chữa nói chung, luật sư nói riêng được tham gia tố tụng, trong đó có việc tham gia một số hoạt động điều tra từ 1 trong 3 thời điểm, đó là:
Thứ nhất, từ khi khởi tố bị can;
Thứ hai, từ khi người bị bắt (trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, đang bị truy nã) có mặt tại trụ sở của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ;
Thứ ba, từ khi kết thúc điều tra trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia và thẩm quyền quyết định việc tham gia các hoạt động tố tụng của luật sư thuộc về Viện trưởng VKS có thẩm quyền.
Mỗi thời điểm nêu trên đều gắn với một quyết định tố tụng cụ thể của người, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, việc tham gia một số hoạt động điều tra của Luật sư chủ yếu là ở thời điểm “từ khi khởi tố bị can”. Thực tiễn chứng minh rằng việc luật sư có thể tham gia tố tụng ở thời điểm thứ hai là rất hạn chế bởi nhiều lý do khác nhau, còn ở thời điểm thứ ba thì luật sư chỉ có thể tham gia vào một số hoạt động điều tra bổ sung bởi vì đã kết thúc điều tra nhưng vụ án có hoạt động điều tra bổ sung hay không lại phụ thuộc vào quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền.
Từ những nội dung nêu trên có thể nhận thấy, phạm vi tham gia một số hoạt động điều tra của luật sư về thời gian bắt đầu từ ba thời điểm đã nêu và kết thúc khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành điều tra ban hành bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ban hành bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra.
5. Vai trò luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Sự xuất hiện của của Luật sư trong giai đoạn điều tra giải quyết được rất nhiều vấn đề quan trọng trong tố tụng hình sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của thân chủ mình. Cụ thể:
Khi thân chủ trong vụ án hình sự không hiểu biết hết về quyền lợi của mình trong giai đoạn điều tra và không tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình khi bị cơ quan có thẩm quyền tiến hành điều tra.
Luật sư giúp thân chủ nắm bắt được các quy định pháp luật liên quan đến tội danh bị truy cứu trách nhiệm hình sự, các quy trình tố tụng, thời gian, quá trình giải quyết. Giúp cho thân chủ của mình hiểu một cách tổng thể nhất về việc giải quyết vụ án. Tránh tối đa việc tốn kém chi phí không cần thiết, an tâm, suy nghĩ sáng suốt khi giải quyết công việc.
Giúp cho thân chủ yên tâm, bình tĩnh đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả pháp lý của hành vi vi phạm pháp luật mà cơ quan điều tra đang xử lý.
Giúp cho thân chủ đưa ra định hướng, phương pháp khắc phục hậu quả, thu thập tài liệu, chứng cứ minh oan, giảm nhẹ hình phạt hoặc tìm ra sự thật khách quan của vụ án
Gặp gỡ làm việc với cơ quan tố tụng để bảo vệ thân chủ xử đúng pháp luật cho thân chủ.
Luật sư gặp trực tiếp thân chủ trong trại tạm giam hoặc phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng hỏi cung để làm sáng tỏ vụ án.
Trực tiếp bào chữa cho thân chủ tại phiên tòa.
Việc luật sư tham gia vào vụ án hình sự sớm sẽ có tác dụng trong việc chứng minh sự thật khách quan, giúp cơ quan điều tra chứng minh, làm sáng tỏ tình tiết, hành vi, nội dung vụ án. Hạn chế tối đa nhất việc oan, sai hoặc áp dụng hình phạt quá nặng trong việc giải quyết các vụ án hình sự và giúp cho thân chủ tránh tối đa lãng phí chi phí không cần thiết, đạt được hiệu quả tối đa trong khi giải quyết công việc.
6. Yêu cầu đối với việc Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Khi luật sư tham gia trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo luật định cần quán triệt các yêu cầu sau:
Thứ nhất: Thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của pháp luật khi tham gia tố tụng.
Khi tham gia vào hoạt động đối chất, nhận dạng… luật sư phải thực hiện đầy đủ quy định tại Điều 189, Điều 190, Điều 178 BLTTHS năm 2015. Khi thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa, luật sư phải kịp thời giao cho Cơ quan điều tra, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đưa vào hồ sơ vụ án…
Bên cạnh đó, Luật sư còn có vai trò “giám sát” việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động điều tra mà những người tiến hành tố tụng đã, đang thực hiện nhằm đảm bảo mọi hành vi và quyết định tố tụng liên quan đến thân chủ của mình đều phải dựa trên cơ sở các quy định của BLTTHS, kịp thời phát hiện vi phạm pháp luật để yêu cầu áp dụng các biện pháp cần thiết được quy định để khắc phục vi phạm đó.
Thứ hai: Tôn trọng sự thật khách quan khi tham gia vào các hoạt động điều tra: Tôn trọng sự thật khách quan là tôn trọng những chứng cứ có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định và từ các nguồn chứng cứ được ghi nhận tại Điều 87 BLTTHS năm 2015
Thứ ba: phải giữ bí mật điều tra khi tham gia hoạt động điều tra và khi thực hiện bào chữa.
Đây không chỉ là yêu cầu mà còn là nghĩa vụ của Luật sư được quy định tại các điểm e, g khoản 2 Điều 73 BLTTHS năm 2015. Giữ bí mật điều tra là một trong những yếu tố quan trọng góp phần khám phá tội phạm. Theo quy định của pháp luật thì bí mật điều tra gồm những thông tin về điều tra vụ án hình sự từ khi có quyết định khởi tố vụ án đến khi có kết luận điều tra của cơ quan điều tra, những thông tin về kết quả kiểm sát điều tra…
7. Luật sư tham gia trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự như thế nào?
7.1 Luật sư tham gia hoạt động điều tra vụ án hình sự với tư cách người bào chữa
Thực tế, luật sư có thể tham gia tố tụng bào chữa cho người bị buộc tội thuộc các trường hợp như: Một luật sư tham gia bào chữa cho nhiều người bị tạm giữ hoặc nhiều bị can; nhiều luật sư cùng tham gia bào chữa cho một người bị tạm giữ hoặc một bị can; 1 luật sư tham gia bào chữa cho một người bị tạm giữ hoặc bị can; luật sư tham gia bào chữa cho bị can đang tại ngoại;…
Để thực hiện được điều này, luật sư cần chuẩn bị giấy tờ, đăng ký bào chữa tại Cơ quan điều tra đối với vụ án mà luật sư được mời tham gia. Luật sư điều tra vụ án hình sự thể hiện ở các hoạt động sau:
Tham gia lấy lời khai của người bị tạm giữ, hỏi cung bị can
Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa được quyền có mặt khi hỏi cung bị can và nếu được điều tra viên đồng ý thì có thể đặt câu hỏi đối với bị can.
Khi tham gia hoạt động điều tra, theo dõi việc hỏi cung bị can của điều tra viên, luật sư lắng nghe các câu hỏi của điều tra viên và câu trả lời của thân chủ để nắm được nội dung vụ án. Bên cạnh đó, luật sưu phải ghi lại chi tiết những hành vi, ứng xử của điều tra viên, kiểm sát viên trong buổi hỏi cung, để sau này sau khi đọc hồ sơ vụ án, Luật sư có thể hiểu một cách toàn diện và đầy đủ nhất.
Thu thập các tài liệu, chứng cứu liên quan đến việc bào chữa
Khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 ghi nhận 03 quyền của người bào chữa, bao gồm: Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản.
Theo điều 88 BLTTHS năm 2015, để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.
Khi tiếp cận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án do người bào chữa cung cấp, cơ quan tiến hành tố tụng phải lập biên bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 73 BLTTHS năm 2015. Theo quy định của pháp luật thì những tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án do người bào chữa thu thập được có giá trị như những tài liệu, đồ vật do CQĐT thu thập.
Trong trường hợp việc thu thập chứng cứ gặp khó khăn, người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản. Cùng với việc khiếu nại, giải quyết khiếu nại, thì ây là biên pháp rất quan trọng nhằm bảo đảm quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa, là cơ sở cho việc nâng cao vị thế của người bào chữa trong TTHS.
Luật sư tham gia một số hoạt động điều tra khác
Một số hoạt động điều tra khác mà Luật sư có thể tham gia là:
– Tham dự, giám sát việc khám nghiệm hiện trường theo khoản 2 Điều 201 BLTTHS năm 2015;
– Tham gia giám sát hoạt động điều tra của điều tra viên, trường hợp phát hiện ra những sai sót của cơ quan điều tra thì kiến nghị kịp thời đề nghị cơ quan điều tra, điều tra viên khắc phục đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng;
– Khi tham gia bào chữa từ giai đoạn điều tra, nếu luật sư nhận thấy cần thiết phải trưng cầu giám định, giám định lại, giám định bổ sung hoặc đối chất, khai quật tử thi.. thì luật sư cần có văn bản đề nghị cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động đó và yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp cho mình kết quả giám định theo quy định của BLTTHS;
– Luật sư khi tham gia hoạt động đối chất: Khi điều tra viên thực hiện những hoạt động này, luật sư giám sát, ghi chép đầy đủ những câu hỏi, nội dung trả lời của những người tham gia đối chất về những vấn đề mâu thuẫn. Khi được Điều tra viên đồng ý, luật sư có thể trực tiếp hỏi người tham gia đối chất về những vấn đề chưa rõ, cần mâu thuẫn…;
– Luật sư tham gia hoạt động nhận dạng;
– Giám sát, phát hiện các vi phạm tố tụng của Điều tra viên và đưa ra yêu cầu, đề xuất.
7.2 Luât sư tham gia hoạt động điều tra với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ich hợp pháp cho bị hại, đương sự
Nếu như đối với người bị buộc tội pháp luật quy định những trường hợp bào chữa chỉ định thì khi bảo vệ cho bị hại, cho đương sự trong vụ án, luật sư chỉ tham gia khi được khách hàng mời. BLTTHS quy định người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại của đương sự là người được bị hại, đương sự nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
Sau khi được khách hàng mời, để tham gia vụ án với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích của bị hại trong vụ án hình sự, luật sư phải làm thủ tục đăng ký với cơ quan đang thụ lý vụ án. Luật sư điều tra vụ án hình sự thể hiện cụ thể như sau:
Tham gia hoạt động điều tra cùng cơ quan điều tra: Khi bị hại nhận được giấy triệu tập làm việc của cơ quan điều tra, luật sư có thể cùng bị hại tham gia các hoạt động điều tra. BLTTHS quy định người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại được quyền có mặt khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói của người mà mình bảo vệ.
Thu thập tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu, trao đổi, kiến nghị: BLTTHS quy định khi tham gia vụ án hình sự, bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại có quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
Trong quá trình tham gia giải quyết vụ án, từ những thông tin, tài liệu, chứng cứ có được, luật sư cần phân tích, đánh giá để từ đó tự mình hoặc qua thân chủ đưa ra yêu cầu phù hợp với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Khi tham gia quá trình điều tra, căn cứ và các thông tin, tài liệu, chứng cứ thu thập được, luật sư có thể trao đổi, kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để vụ án được giải quyết đúng quy định pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích chính đang cho thân chủ
Yêu cầu giám định, định giá tài sản: Để đảm bảo vụ án được giải quyết khách quan, công bằng, BLTTHS cũng quy định cho bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại được quyền đề nghị, yêu cầu giám định, định giá tài sản theo quy định pháp luật.
Yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng bảo vệ an toàn cho bị hại: Luật sư có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có biện pháp, can thiệp để bảo vệ bị hại.
Thực hiện quyền khiếu nại: Trong quá trình tham gia vụ án hình sự với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, nếu nhận thấy cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có những quyết định hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có những hành vi trái quy định pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của bị hại, luật sư cs quyền kiến nghị, khiếu nại theo quy định của pháp luật.
7.3 Luật sư tham gia hoạt động điều tra với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can
Sau khi đăng ký, trở thành người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, luật sư được quyền tham gia các hoạt động điều tra liên quan đến đương sự mà mình bảo vệ. BLTHS quy định luật sư được quyền có mặt khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói của người mà mình bảo vệ.
Trong quá trình tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong giai đoạn điều tra, tùy theo địa vị pháp lý, sự liên quan của thân chủ, các vấn đề cần chứng minh trong vụ án…, luật sư có thể sử dụng các kỹ năng, quyền được pháp luật quy định để tiến hành các hoạt động giúp làm rõ sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo vụ án được giải quyết khách quan, công bằng đúng quy định của pháp luật, cụ thể như:
– Thu thập các tài liệu, đồ vật có liên quan đến đương sự mà luật sư bảo vệ, cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để làm rõ sự thật khách quan của vụ án;
– Trong trường hợp nhận thấy cần tiến hành giám định, định giá tài sản liên quan đến thân chủ mình, luật sư có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giám định, định giá tài sản;
– Nếu nhận thấy quá trình giải quyết vụ án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có dấu hiệu sai phạm, ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án, quyền và lợi ích chính đáng của đương sự mà mình bảo vệ, luật sư có thể trao đổi, kiến nghị, khiếu nại đến cơ quan, người có thẩm quyền; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng nếu có đủ căn cứ theo quy định pháp luật.
Kết thúc điều tra, luật sư được quyền đọc, ghi chép, sao chụp những tài liệu tỏng hồ sơ vụ án liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.